Bình luận án hình sự phức tạp, có nhiều quan điểm khác nhau trong quá trình tiến hành tố tụng và một số án lệ, quyết định giám đốc thẩm (tái bản lần thứ nhất, có sửa đổi, bổ sung) Tác giả: TS.Trần Quang Hiển, TS. Đỗ Đức Hồng Hà (Chủ biên) Nhà xuất bản: Lao động Số trang: 504 trang Khổ: 16 x 24 cm
Văn học Nhật Bản; Văn học Việt Nam; Văn học nước ngoài; Tiểu thuyết phương tây; Tác phẩm kinh điển; Hồi ký – Tùy Bút; Kinh tế – Quản lý; Marketing – Bán hàng; Triết học; Khoa học – kỹ thuật; Tâm lý – Kỹ năng sống; Y học – Sức khỏe; Cổ tích thần thoại; Truyện
Người dân di chuyển trên đường phố tại Tokyo, Nhật Bản. (Ảnh: Kyodo/TTXVN) Ngày 19/10, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định hạ cảnh báo đi lại tới 76 quốc gia/vùng lãnh thổ từ cấp độ 2 trên thang cảnh báo 4 cấp xuống cấp độ 1, tức là chỉ khuyên công dân Nhật Bản tới các quốc gia/vùng lãnh thổ này phải
Đinh Văn Quế - WShowresult. Luật sư Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, 2017, Số 1+2, tr.54-55 24, Bình luận khoa học bộ luật Hình sự - Phần các tội phạm : Bình luận chuyên sâu. Trần Gia Hưng tốt nghiệp trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn chuyên ngành viết văn.
Qua đó cho thấy số tiền mà cơ quan chức năng tỉnh Bình Thuận đã áp giá thu đối với các dự án này thấp hơn hàng nghìn tỷ đồng so với kết luận định giá. Trong đó, dự án Khu đô thị Du lịch biển Phan Thiết của Công ty TNHH Khu đô thị du lịch biển Phan Thiết, thuộc
Bình luận tội giết người theo BLHS năm 2015. Định tội danh giữa tội Giết người và tội Cố ý gây thương tích. Án lệ số 28/2019/AL về tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” Bình luận Án lệ hình sự số 01/2016/AL về vụ án Giết người
HPa5N. 1. Các dạng vi phạm dẫn đến vụ án hình sự bị hủy Qua thực tiễn xét xử, cùng như tham khảo các báo cáo của Tòa án, Viện kiểm sát... chúng tôi thấy phổ biến một số dạng vi phạm sau đây Vi phạm nghiêm trọng các qui định của BLTTHS a. Vi phạm về thẩm quyền giải quyết vụ án Điều 110 BLTTHS Vi phạm này thể hiện ở hai dạng Cơ quan tiến hành tố tụng xác định không đúng nơi xảy ra hành vi phạm tội dẫn đến điều tra, truy tố, xét xử sai thẩm quyền lãnh thổ, hoặc vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh, nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện thụ lý giải quyết. b. Vi phạm trong việc hỏi cung, lấy lời khai, đối chất, nhận dạng Điều 131, 132, 135, 137, 138, 139 BLTTHS Những vi phạm này được thể hiện cụ thể như không đảm bảo sự tham gia khách quan của người bào chữa, người giám hộ theo quy định của BLTTHS, có những trường hợp hình thức biên bản thể hiện đúng quy định tố tụng nhưng thực chất thì các biên bản ghi lời khai, hỏi cung không có người giám hộ hoặc Luật sư tham gia mà sau đó họ mới ký vào để hợp pháp hóa các biên bản. Một số trường hợp lập biên bản hỏi cung, ghi lời khai không thể hiện tính khách quan do biên bản được soạn thảo trên máy vi tính với những nội dung giống nhau đến từng dấu chấm, dấu phẩy; các biên bản viết tay thì thể hiện sao chép lại nội dung lời khai của người bị hại, nhân chứng, vi phạm này thường xảy ra ở các vụ án có số lượng đông bị hại và nhân chứng và lời khai của họ thường cùng một nội dung. Biên bản ghi lời khai không gạch chéo phần trống, hoặc không thể hiện rõ việc bị can đã được nghe lại hoặc được đọc lại xác nhận nội dung biên bản. Đặc biệt các biên bản ghi lời khai nhân chứng thường không thể hiện rõ nội dung vì sao biết được tình tiết đó mà khai ra theo quy định của Điều 67 khoản 2 BLTTHS do vậy khi nhân chứng có sự thay đổi lời khai thì không có cơ sở để đánh giá lời khai nào đúng, lời khai nào không đúng. Cũng không ít biên bản hỏi cung bị can, biên bản ghi lời khai bị hại, nhân chứng nhưng không có phiên dịch trong những trường hợp họ là người dân tộc. Lời khai của bị can, bị cáo, bị hại, nhân chứng, người liên quan mâu thuẫn nhưng không đối chất làm rõ dẫn đến thiếu căn cứ buộc tội, phải hủy án. Theo quy định tại Điều 138 BLTTHS “Trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người thì ĐTV tiến hành đối chất”, nhưng qua thực tế cho thấy nhiều vụ án Tòa án tuyên hủy để điều tra lại chính là do vi phạm các quy định tố tụng về nội dung. c. Vi phạm tố tụng trong việc khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng, khám xét, thực nghiệm điều tra, giám định Điều 140, 150, 153, 155, 156 BLTTHS Vi phạm trong việc khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng xảy ra nhiều và thể hiện ở việc lập biên bản khám nghiệm hiện trường không đúng quy định, thu giữ vật chứng nhưng không lập biên bản niêm phong. Vi phạm trong việc khám xét thể hiện ở việc không tiến hành khám xét nơi cất giấu tang vật. Trong việc thực nghiệm điều tra, vi phạm thể hiện ở việc không tổ chức thực nghiệm tại hiện trường nơi xảy ra vụ án mà thực nghiệm ở nơi khác. Trong giám định hoặc định giá tài sản cũng có nhiều vi phạm như không trưng cầu giám định hoặc giám định, định giá không đúng quy định; các loại vi phạm này thường xảy ra trong các loại tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe; xâm phạm sở hữu; tội phạm về quản lý kinh tế; xâm phạm về trật tự an toàn giao thông. d. Việc điều tra, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ để làm căn cứ kết luận hành vi phạm tội, người phạm tội và các tình tiết khách quan của vụ án Điều 63 BLTTHS Dạng vi phạm thể hiện cụ thể là chưa làm rõ hậu quả của tội phạm, hoặc chưa làm rõ tuổi của bị cáo hoặc người bị hại trong các vụ án mà bị cáo, bị hại còn ở tuổi chưa thành niên, đặc biệt là trong các vụ án “Hiếp dâm trẻ em”, bị hại, bị cáo được sinh ra ở khu vực phía Nam thường khai sinh quá hạn và không đúng với thời điểm thực tế bị cáo, bị hại được sinh ra. Nhưng khi tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ có mâu thuẫn thì các cơ quan tiến hành tố tụng không giám định độ tuổi để làm căn cứ khởi tố, truy tố cho chính xác mà vẫn kết luận điều tra truy tố, trong khi việc xác định tuổi của bị cáo, bị hại có ý nghĩa rất quan trọng trong xác định tội danh và quyết định đường lối xử lý. Vi phạm trong xác định lý lịch tư pháp của người thực hiện hành vi phạm tội không chính xác xảy ra nhiều, dẫn đến việc khởi tố bị can, kết luận điều tra, truy tố và kết án không đúng tên người phạm tội. đ. Vi phạm về giới hạn xét xử, việc xét hỏi, tranh luận, nghị án, ghi biên bản phiên tòa và phạm vi xét xử Điều 196, 200, 207, 222, 238 BLTTHS Vi phạm về giới hạn xét xử thường gặp là VKS truy tố một tội danh nhưng Tòa án xử bị cáo về nhiều tội danh khác nhau. Vi phạm về việc xét hỏi và tranh luận thường gặp là không công bố lời khai trong quá trình xét hỏi theo yêu cầu của VKS; tranh luận và xét hỏi đan xen nhau, không đúng quy định tại Điều 207 BLTTHS. Vi phạm về việc nghị án và ghi biên bản phiên tòa thường gặp là nghị án một nội dung nhưng tuyên án một nội dung khác, nghị án tội này nhưng tuyên trong bản án tội khác như nghị án tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” nhưng tuyên án tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, biên bản nghị án không ghi điều luật hay khung hình phạt áp dụng, thậm chí có trường hợp không ghi cả mức hình phạt trong biên bản nghị án, nhiều trường hợp tên và số lượng thành viên HĐXX trong biên bản nghị án khác với tên và số lượng thành viên HĐXX trong bản án và biên bản phiên tòa khác nhau; có sự mâu thuẫn giữa biên bản phiên tòa và biên bản nghị án về số lượng và thành phần những người tiến hành tố tụng; những vi phạm nghiêm trọng này của Tòa án nhưng VKS các địa phương cũng không phát hiện kịp thời để kiến nghị, kháng nghị, những vi phạm đó làm ảnh hưởng rất lớn tới quyền của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nên cấp phúc thẩm và giám đốc thẩm tuyên hủy án để điều tra lại, xét xử lại. Vi phạm về phạm vi xét xử phúc thẩm là trường hợp bị cáo rút toàn bộ kháng cáo tại phiên tòa nhưng không đình chỉ xét xử phúc thẩm. e. Xác định sai tư cách người tham gia tố tụng hoặc không đưa đầy đủ người tham gia tố tụng vào quá trình giải quyết vụ án Điều 51, 52, 53, 54, 55 BLTTHS Việc xác định sai tư cách tham gia tố tụng thường thể hiện như nhầm lẫn giữa nguyên đơn dân sự và bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự với người có quyền, nghĩa vụ liên quan; nhầm lẫn giữa bị hại với người có quyền, nghĩa vụ liên quan. Nhiều vụ án không đưa đầy đủ người tham gia tố tụng vào quá trình giải quyết vụ án như không đưa chủ phương tiện, Công ty bảo hiểm tham gia tố tụng trong các vụ án giao thông. Việc xác định sai tư cách người tham gia tố tụng hoặc không đưa đầy đủ người tham gia tố tụng vào quá trình giải quyết vụ án, làm ảnh hưởng rất lớn tới việc giải quyết khách quan toàn diện vụ án, cũng như ảnh hưởng tới quyền nghĩa vụ của các đương sự, ví dụ khi xác định sai người bị hại thành người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan làm ảnh hưởng tới quyền kháng cáo về hình phạt của họ đối với bị cáo và làm thiệt hại cho họ khi quyết định về phần bồi thường. Vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng các quy định của BLHS a. Truy tố, xét xử không đúng tội danh Những vi phạm này thường xảy ra ở những tội phạm có dấu hiệu đặc trưng gần giống nhau như giết người với cố ý gây thương tích, giết người trong trạng thái bị kích động mạnh với giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng với giết người tại khoản 2 Điều 93 BLHS... hoặc các tội phạm về kinh tế như tội lừa đảo và tội lạm dụng tín nhiệm, hoặc hành vi chỉ phạm vào một tội nhưng truy tố, xét xử về nhiều tội danh khác nhau. b. Bỏ lọt tội phạm và người phạm tội Đây là vi phạm xảy ra khá nhiều trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, được thể hiện ở việc các cơ quan tố tụng đánh giá chứng cứ không đúng, không đầy đủ, toàn diện, dẫn đến bỏ lọt hành vi phạm tội, bỏ lọt người phạm tội, nhất là bỏ lọt những hành vi đi liền với nhau cấu thành nhiều tội phạm khác nhau nhưng chỉ truy tố, xét xử một tội hoặc nhiều người đồng phạm cùng tham gia thực hiện tội phạm nhưng chỉ xử lý người chủ mưu, người thực hành, bỏ lọt các đồng phạm khác, như trong các vụ án giết người có đông đồng phạm tham gia, thường chỉ xử lý kẻ chủ mưu, thực hành còn những đồng phạm khác có vai trò giúp sức về tinh thần thì xử lý hành chính hoặc xử lý tội gây rối trật tự công cộng... Một số tội như “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” để “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” có nơi xử hai tội, có nơi thu hút về một tội, đây cũng là những nội dung các VKS địa phương vướng mắc thỉnh thị nhưng chưa được quan tâm hướng dẫn để có nhận thức và áp dụng thống nhất. c. Xác định sai khung hình phạt, áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cho hưởng án treo, quyết định hình phạt, áp dụng biện pháp tư pháp không đúng Việc xác định sai khung hình phạt thường gặp là bị cáo phạm vào khung tăng nặng nhưng truy tố hoặc xét xử ở khung nhẹ hơn. Áp dụng tình tiết tăng nặng giảm nhẹ không đúng được thể hiện như bỏ sót các tình tiết tăng nặng, cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ không đúng qui định, áp dụng Điều 47 BLHS không đúng, đây cũng là những vi phạm xảy ra khá phổ biến trong xét xử các vụ án hình sự nói chung, các vụ án bị tuyên hủy nói riêng. Cho hưởng án treo không đúng qui định cũng là những vi phạm xảy ra nhiều, vi phạm này thường bắt nguồn từ việc nhận thức và áp dụng không đúng các qui định của pháp luật cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành, như nhận thức áp dụng sai các tình tiết định khung, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự… từ đó cho hưởng án treo cả những đối tượng chủ mưu, phạm nhiều tội cùng lúc hoặc phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, các đối tượng phạm tội có tính chất côn đồ, hoặc cho hưởng án treo đối với các bị cáo phạm các tội dư luận lên án, vi phạm nghiêm trọng Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 60 BLHS về án treo. Sử dụng tiền án của bị cáo để xác định là tình tiết định tội, đồng thời lại tiếp tục sử dụng tiền án đó để tính tái phạm đối với bị cáo, vi phạm nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 49 BLHS. Các vi phạm khác trong việc quyết định hình phạt như không trừ thời gian bắt buộc chữa bệnh vào thời hạn chấp hành hình phạt tù vi phạm Điều 44 BLHS. Trường hợp xử phạt tù có thời hạn nhưng thấp hơn mức thấp nhất của loại hình phạt tù có thời hạn. Áp dụng biện pháp tư pháp không đúng thường liên quan đến việc xử lý vật chứng. 2. Bất cập, hạn chế và kiến nghị hoàn thiện. Về căn cứ hủy bản án hình sự sơ thẩm để xét xử lại Trường hợp “Có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 358 BLTTHS là căn cứ pháp lý để Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại. Thế nhưng, mặc dù tại điểm o khoản 1 Điều 4 BLTTHS đã giải thích khái niệm Có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử nhưng đây là giải thích chung không có quy định giải thích cụ thể các sai sót bị xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và cũng chưa đề ra tiêu chí phân biệt ranh giới giữa vi phạm nghiêm trọng với vi phạm chưa tới mức nghiêm trọng. Chính vì vậy, việc hiểu cụ thể về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm còn có những ý kiến khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử là việc Tòa án cấp sơ thẩm đã có những sai phạm về mặt thủ tục tố tụng dẫn đến việc giải quyết xét xử vụ án không tuân thủ những quy định của pháp luật tố tụng hành chính làm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự vụ án. Quan điểm thứ hai cho rằng “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử được hiểu là những vi phạm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án không chính xác hoặc xâm phạm đến quyền tố tụng của những người tham gia tố tụng”. Như vậy, việc BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành không giải thích rõ cụm từ “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong xét xử” đã làm cho việc hiểu và áp dụng pháp luật gặp khó khăn, lúng túng, thiếu thống nhất giữa các địa phương, các cấp Tòa, ảnh hướng đến chất lượng trong phán quyết của bản án phúc thẩm. Về căn cứ hủy bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại Đối với trường hợp“Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được” tại điểm b khoản 1 Điều 358 BLTTHS. Chứng cứ, tài liệu được thu thập trong quá trình điều tra hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Luật định mà Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án. Trong BLTTHS, chứng cứ, tài liệu được xem là căn cứ quan trọng không thể thiếu để Tòa án giải quyết vụ án khách quan, chính xác và đúng pháp luật. Về nguyên tắc, các chứng cứ, tài liệu được sử dụng phải đáp ứng hết các tiêu chuẩn khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. Khi vụ án được xét xử lại theo trình tự phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã phát hiện sự tồn tại của các chứng cứ, tài liệu mà Tòa án cấp phúc thẩm không thể bổ sung ngay được thì Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ phải hủy bản án sơ thẩm. Như vậy trong căn cứ này, chúng ta phải làm rõ nội dung thế nào là việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Hiện nay, BLTTHS chưa có quy định nào nhằm xác định việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được còn nhiều quan điểm và cách giải quyết khác nhau, cụ thể Một là, nếu các chứng cứ đã tồn tại trong giai đoạn giải quyết sơ thẩm vụ án nhưng nó không xuất hiện vì do một trong các thành phần tham gia tố tụng cố tình che giấu không làm cho chúng xuất hiện cơ quan điều tra không thu thập được mặc dù đã áp dụng các biện pháp theo quy định và Tòa án cấp sơ cũng không thể phát hiện ra đến giai đoạn phúc thẩm mới phát hiện ra vậy đây có phải là vấn đề điều tra cấp sơ thẩm không đầy đủ hay không? Hai là trường hợp ngược lại, trong giai đoạn sơ thẩm, các thành phần tham gia tố tụng đã xuất trình giao nộp các chứng cứ này nhưng Tòa án đã không sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ án đến khi giải quyết phúc thẩm Tòa án cấp phúc thẩm mới phát hiện ra và đây có thuộc trường hợp việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ không? Thiết nghĩ để hiểu chính xác, đầy đủ nhất tất cả các vấn đề trên là cần có sự hướng dẫn, giải thích. 3. Kiến nghị hoàn thiện Về căn cứ hủy bản án hình sự để xét xử lại Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về trường hợp hủy án để xét xử lại “Có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 358 BLTTHS. Theo chúng tôi về khái niệm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố như sau Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩ là những vi phạm về mặt thủ tục tố tụng làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật, khách quan của vụ án không chính xác hoặc xâm phạm đến quyền, nghĩa vụ tố tụng của những người tham gia tố tụng. Để làm rõ được khái niệm này, chúng tôi nêu một số những vi phạm về thủ tục tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm bao gồm cả việc chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tòa, cũng như một số việc cần phải tiến hành sau phiên tòa; những vi phạm cũng rất đa dạng song có thể nêu lên một số vi phạm thủ tục tố tụng thường xảy ra dẫn đến việc hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại như sau Một là, vi phạm về thành phần hội đồng xét xử; Hai là xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng; Ba là không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng khi giải quyết vụ án; Bốn là vắng mặt thành phần tham gia tố tụng quan trọng nhưng không có lý do chính đáng hoặc không thuộc trường hợp bất khả kháng hoặc các trường hợp vắng mặt theo luật định. Năm là không thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa khi thuộc trường hợp phải từ chối, thay đổi theo quy định của BLTTHS; Sáu là vi phạm về thủ tục tiến hành phiên tòa; Bảy là bỏ sót chưa giải quyết triệt để hết các yêu cầu của người tham gia tố tụng; Tám là việc nghị án không đúng. Bên cạnh đó, một điều cần lưu ý, không phải tất cả các vi phạm pháp luật BLTTHS của tòa án cấp sơ thẩm đều là căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại mà những vi phạm pháp luật đó phải đến mức nghiêm trọng, tức là làm cho việc giải quyết đó thiếu khách quan, toàn diện, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Còn những vi phạm pháp luật mà không làm ảnh hưởng nghiêm trọng thì không coi là căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án và chuyển hồ sơ cho tòa án cấp xét xử sơ thẩm xét xử lại. Kiến nghị hoàn thiện quy định về căn cứ hủy bản án hình sự để điều tra lại. Cần có văn bản hướng dẫn đối với trường hợp hủy án để điều tra lại“Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được” tại điểm b khoản 1 Điều 358 BLTTHS, theo chúng tôi văn bản hướng dẫn như sau “Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được cần phải thỏa mãn hai điều kiện sau đây 1/ Các vấn đề được Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện ra đã tồn tại ngay từ đầu khi thụ lý xét xử sơ thẩm nhưng do Cơ quan điều tra và thành phần tham gia tố tụng không biết đến sự tồn tại của chúng hoặc chúng chưa xuất hiện. Việc không biết các vấn đề này có thể là do nguyên nhân khách quan làm cho Cơ quan điều tra không thu thập được và các thành phần tham gia tố tụng không biết song cũng có thể do một số người tham gia tố tụng biết nhưng cố ý che dấu không cung cấp làm cho Tòa án sơ thẩm không thể biết được. Ngược lại cũng có thể do người tham gia tố tụng hoặc những người tiến hành tố tụng biết mà che dấu, bỏ qua không xem xét chúng, làm chúng không được tồn tại trong hồ sơ vụ án. 2/ Về mặt thời gian, các vấn đề được xem là việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được được Tòa án cấp phúc thẩm xét xử phúc thẩm phát hiện ra sự tồn tại và sự quan trọng của chứng cứ đó nhằm giải quyết triệt để vụ án. Việc Tòa án phát hiện ra có tồn tại chứng cứ mới có thể do quá trình Tòa án nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét và phát hiện ra sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm không đánh giá các chứng cứ đó hoặc cũng có thể là do người kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phát hiện sự tồn tại các chứng cứ mới nhưng các chứng cứ này Tòa án không thể bổ sung, thu thập ngay tại phiên tòa được”. Từ các lập luận trên theo chúng tôi để giải thích việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được thì phải căn cứ vào hai tiêu chí nguyên nhân chúng tồn tại, xuất hiện và thời điểm chúng xuất hiện đã làm thay đổi nội dung vụ án và khi Tòa án phát hiện ra chúng mà không thể bổ sung ngay được thì Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ ra quyết định hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại. Tòa án nhân dân huyện Tiên Phước, Quảng Nam xét xử vụ án hình sự -Ảnh VP
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ- Điều 93 của Bộ luật hình sự năm 1999Điều 93. Tội giết người"Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung than hoặc tử hình … m Thuê giết người hoặc giết người thuê;n Có tính chất côn đồ…”- Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999“Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác… Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm”… Sự cần thiết phải công bố án lệBộ luật hình sự năm 1999 đã quy định về tội giết người Điều 93 và tội cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” khoản 3 Điều 104. Hai tội danh này có nhiều dấu hiệu cấu thành tội phạm cơ bản giống nhau như Đều có hành vi khách quan là đánh, đâm, chém, bắn…; hậu quả là nạn nhân chết. Việc phân biệt hai tội danh này chủ yếu dựa vào ý thức chủ quan của người phạm tội. Thực tiễn xét xử cho thấy, trong nhiều trường hợp việc phân định hai tội danh nêu trên là rất khó khăn do các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khó có thể xác định ý thức chủ quan của người phạm tội và thực tế thì cơ sở để xác định ý thức chủ quan của người phạm tội chủ yếu dựa trên việc đánh giá những biểu hiện khách quan bên ngoài của hành vị phạm tội. Bên cạnh đó, việc xác định như thế nào là “gây thương tích dẫn đến chết người” cũng chưa được hướng dẫn cụ thể dẫn đến nhiều cách hiểu, đánh giá khác nhau về cùng một hành vi, từ đó dễ dẫn đến sai sót trong việc xác định tội danh của người phạm Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn, công bố Án lệ số 01/2016/AL nhằm làm rõ sự khác biệt giữa tội giết người và tội cố ý gây thương tích với tình tiết tăng nặng định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”. Theo đó, dấu hiệu pháp lý đặc trưng để phân biệt hai tội này là về ý thức chủ quan của bị cáo nhằm tước đoạt tính mạng của người khác hay chỉ có ý muốn gây thương tích cho người khác, họ có thấy hoặc buộc phải thấy trước hậu quả chết người xảy ra hay không? Nội dung vụ án và tình huống của án lệTrong các vụ việc tạo lập Án lệ số 01/2016/AL, bị cáo Đồng Xuân Phương đã thuê Hoàng Ngọc Mạnh, Đoàn Đức Lân đánh anh Nguyễn Văn Soi để trả thù bằng cách dùng dao đâm vào chân, tay anh Soi để gây thương tích. Sau đó, Mạnh đã thực hiện hành vi đâm 02 nhát vào mặt sau đui phải, làm anh Soi chết. Kết luận giám định cho thấy anh Soi bị 02 vết thương tại mặt sau đùi phải, vết phía trên xuyên vào cơ đùi 3cm, vết phía dưới cắt đứt động mạch, tĩnh mạch, đùi sau gây chảy mất nhiều máu. Nguyên nhân bị hại chết là do cú sốc mất mấy cấp không hồi phục do vết thương động mạch. Đoàn Đức Lân và Hoàng Ngọc Mạnh đã bỏ trốn, đang bị truy lệ này đang xem xét trách nhiệm hình sự của người chủ mưu trong một vụ án hình sự có đồng phạm tham gia. Trong án lệ này, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã căn cứ vào ý thức chủ quan của bị cáo là có mong muốn tước đoạt tính mạng của người bị hại không và hành vi khách quan thể hiện bên ngoài chứng minh cho ý thức chủ quan đó để xác định bị cáo phạm tội giết người hay cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”. Trường hợp này, người chủ mưu không có ý định tước đoạt tính mạng của người bị hại nên chỉ yêu cầu người thực hành gây thương tích vào chân, tay bị hại; không yêu cầu người tiến hành tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể là những vị trí nếu bị tấn công thì sẽ có nhiều khả năng xâm hại đến tính mạng nạn nhân. Người thực hành làm đúng yêu cầu của người chủ mưu, nhưng sau đó nạn nhân bị chết do sốc mất máu cấp ngoài ý muốn của người chủ mưu…Trong trường hợp này, người chủ mưu chỉ chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” mà không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết Hoàn cảnh tương tự được áp dụng án lệÁn lệ số 01/2016/AL nhằm hướng dẫn các Tòa án trong việc xác định trách nhiệm hình sự của người chủ mưu phạm tội cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” trong vụ án có đồng phạm. Theo đó, trong vụ án có đồng phạm, nếu chứng minh được ý thức chủ quan của người chủ mưu là chỉ thuê người khác gây thương tích cho người bị hại mà không có ý định tước đoạt tính mạng của họ người chủ mưu chỉ yêu cầu gây thương tích ở chân, tay của người bị hại mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến chết người; việc nạn nhân bị chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người chủ mưu thì người chủ mưu phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”.Án lệ số 01/2016/AL được hình thành trên cơ sở một vụ án có đồng phạm và người bị truy cứu trách nhiệm hình sự là người chủ mưu. Tuy nhiên, bản chất của việc xác định bị cáo phạm tội giết người hay tội cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” là ở chỗ xác định ý thức chủ quan của bị cáo có ý định tước đoạt tính mạng của người bị hại hay không và hành vi khách quan chứng minh được cho ý thức chủ quan của bị cáo mà không phụ thuộc vào việc bị cáo đó là người chủ mưu hay người thực hành. Vì vậy, tình huống án lệ này cũng nên được áp dụng đối với trường hợp vụ án không có đồng phạm. Nếu chứng minh được người thực hiện hành vi phạm tội không có ý định tước đoạt tính mạng của người bị hại, khi gây thương tích, bị cáo không tấn công vào những phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến chết người, việc nạn nhân chết là nằm ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo thì cũng cần áp dụng án lệ này để xử bị cáo về tội “cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” mà không xử tội “giết người”.Tuy nhiên, khi xem xét án lệ này cũng còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Quan điểm cho rằng các bị cáo được thuê gây thương tích hiện đang bỏ trốn, chưa bắt được. Việc xác định tội danh đối với người thuê phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người chủ yếu dựa vào lời khai của bị cáo và sự phù hợp với vị trí gây thương tích. Chưa có căn cứ xác định ý thức chủ quan cũng như đầy đủ diễn biến hành vi khách quan của người được thuê khi thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, án lệ này chưa phải là giải pháp pháp lí toàn diện, dễ bị thay đổi nếu bắt được các bị cáo bỏ trốn và xuất hiện những tình tiết khác với vụ án đã được xét xử. Đặc biệt, khó khăn trong việc hiểu như thế nào là “đảm bảo những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau” để áp dụng xét xử các vụ án hình sự tương tự theo quy định tại khoản 3, Điều 2, Nghị quyết số 03/2015/ là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email info
Việc chứng minh, làm rõ các vấn đề để giải quyết vụ án hình sự rất quan trọng Nhiệm vụ của việc giải quyết vụ án hình sự là phát hiện và xử lý kịp thời tội phạm, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người phạm tội, các biện pháp xử lý đối với người phạm tội có căn cứ, hợp pháp và phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm do người phạm tội thực hiện, đáp ứng được yêu cầu cải tạo, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự như sau Khi điểu tra, truy tổ và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do co ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điêm về nhân thân của bị can, bị cáo; chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nhân và điều kiện phạm tội; tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miên trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.” Những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự Vấn đề đầu tiên khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải chứng minh là có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội. Trong từng vụ án hình sự cần phải chứng minh một cách khẳng định rằng hành vi bị truy tố về mặt hình sự đã xảy ra trong thực tế. Việc chứng minh đó thể hiện ở việc làm sáng tỏ một cách đầy đủ và toàn diện tất cả các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội, có ý nghĩa đối với việc định tội danh đúng hành vi và suy cho cùng có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Đó là những dấu hiệu thuộc khách thể và mặt khách quan của tội phạm. Tiếp theo vấn đề cần phải chứng minh là ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội. Chứng minh ai là người thực hiện hành vi phạm tội, tức là xác định chủ thể của tội phạm. Tiếp đến xác định người đó có lỗi hay không. Nếu có lỗi thì lỗi cố ý hay vô ý. Mục đích và động cơ phạm tội cũng cần được chứng minh. Khái quát lại những dấu hiệu cơ bản thuộc chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm phải được làm sáng tỏ. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo là những vấn đề được chứng minh khi điều tra, truy tổ và xét xử. Đó là các tình tiết được quy định ở Điều 51 và Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 và các đặc điểm đặc trưng cho nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt đổi với bị cáo. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra là một trong những vấn đề phải được chứng minh trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra có ý nghĩa quan ưọng đôi với việc xác định mức độ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và có ý nghĩa đối với việc định tội danh, có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định mức độ bồi thường thiệt hại. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; những tình tiết liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt là những vấn đề tuy không thuộc bản chất của vụ án, nhưng có ảnh hưởng trực tiếp đến trách nhiệm hình sự và hình phạt. Do đó, cần được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chứng minh khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sựĐối tượng chứng minh để xác định có hay không có tội phạm, người phạm tội, pháp nhân phạm tội Đây là những vấn đề liên quan đến làm rõ các dấu hiệu để xác định người, pháp nhân có phạm tội hay không, nếu có thì phạm tội tượng chứng minh để xác định khung hình phạt tăng nặng hoặc khung hình phạt giảm nhẹ của tội phạm;Đối tượng chứng minh xác định các căn cứ quyết định hình phạt Xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự;Đối tượng chứng minh để xác định các căn cứ áp dụng án treo, áp dụng các biện pháp tư pháp;Đối tượng chứng minh để giải quyết các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự;Đối tượng chứng minh để xác định căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp cưỡng chế, áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại hoặc người thân thích của họ khi cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động tố tụng;Đối tượng chứng minh để xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm... Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại. viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từnguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ vớchuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail [email protected].
1. Quy định pháp luật liên quan đến án lệ- Điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự 1999 tương ứng với điểm d khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự 2015.- Điều 257 Bộ luật hình sự 1999 tương ứng với Điều 330 Bộ luật hình sự 20152. Sự cần thiết công bố án lệ Thực tiễn cho thấy, có những hành vi, tình tiết tương tự nhau nhưng việc định tội, định khung lại không giống nhau. Cụ thể, trong vụ án sau Khi người điều khiển phương tiện giao thông bị cảnh sát giao thông yêu cầu dừng xe để kiểm tra và xử lý vi phạm thì người lái xe có hành vi chống đối và điều khiển phương tiện đâm thẳng vào lực lượng cảnh sát giao thông đang thi hành công vụ dẫn đến hậu quả chết người hoặc gây thương tích, tổn hại sức khỏe cho người thi hành công vụ. Có trường hợp định tội danh là cố ý gây thương tích, trường hợp khác cũng tương tự như vậy thì lại định tội danh là chống người thi hành công vụ, có trường hợp thì truy tố, xét xử về tội giết người theo Điều 93 BLHS vậy, với hành vi trên, việc định tội và định khung hình phạt là thiếu thống nhất. Do đó, cần thiết phải có một án lệ làm căn cứ định tội danh bảo đảm thống nhất trong việc áp dụng các quy định Nội dung vụ án hình sự và tình huống án lệ* Nội dung vụ án" Lời khai nhận tội của bị cáo Phan Thành H và Từ Công T phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận Vào khoảng 16 giờ 05 phút ngày 30-6-2017, bị cáo Phan Thành H điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS kéo theo sơmirơmoóc BKS khi đi đến km 488 + 650 quốc lộ 1A thuộc địa phận xã K, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh thì bị tổ tuần tra Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Tĩnh dừng xe vì đã vi phạm về tốc độ 66/60km/giờ. Bị cáo Phan Thành H đã không chấp hành vì cho rằng mình không vi phạm tốc độ, nên đã tranh cãi và điều khiển xe đâm thẳng vào ông Nguyễn Anh Đ và ông Lê Hồ Việt A là cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ, khi những người này đang đứng trước đầu xe ô tô. Ông Lê Hồ Việt A nhảy sang lề đường tránh được, còn ông Nguyễn Anh Đ buộc phải bám vào cọng gương chiếu hậu phía trước bên trái đầu xe. Phan Thành H tiếp tục điều khiển xe chạy với tốc độ cao, rồi bất ngờ đánh lái mạnh về phía bên trái vào sát giải phân cách giữa đường nhằm hất ông Nguyễn Anh Đ xuống đường để bỏ trốn. Hậu quả là ông Nguyễn Anh Đ bị rơi khỏi xe va vào giải phân cách cứng giữa đường, rồi rơi xuống đường. Phan Thành H bỏ mặc cho hậu quả xảy ra rồi tiếp tục điều khiển xe chạy trốn. Ông Nguyễn Anh Đ đã bị chấn thương sọ não, gãy chân, tổn hại sức khỏe 40%.Phan Thành H và Từ Công T còn có hành vi phạm tội như sau Bị cáo Từ Công T biết rõ bị cáo Phan Thành H chưa có giấy phép lái xe hạng FC và chưa đủ tuổi để được cấp giấy phép lái xe hạng FC, nhưng Từ Công T đã thuê một người ở Hải Phòng Từ Công T không biết rõ họ tên và địa chỉ làm giấy phép lái xe hạng FC giả, số 520144004729 có ảnh của Phan Thành H, nhưng mang tên Lưu Văn C đưa cho Phan Thành H sử dụng nhằm lừa dối cơ quan chức năng khi điều khiển xe trên đường. Khi có giấy phép lái xe giả do Từ Công T cung cấp, Phan Thành H đã hai lần sử dụng giấy phép lái xe giả để lừa dối cảnh sát giao thông tỉnh Quảng Ngãi và Công an huyện L, tỉnh Hà Tĩnh. Hành vi sử dụng giấy phép lái xe giả lừa dối cơ quan chức năng nêu trên của Phan Thành H, thì Từ Công T đều biết" .* Tình huống án lệLời khai nhận tội của bị cáo Phan Thành H và Từ Công T phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận Vào khoảng 16 giờ 05 phút ngày 30-6-2017, bị cáo Phan Thành H điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS kéo theo sơmirơmoóc BKS khi đi đến km 488 + 650 quốc lộ 1A thuộc địa phận xã K, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh thì bị tổ tuần tra Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Tĩnh dừng xe vì đã vi phạm về tốc độ 66/60km/giờ. Bị cáo Phan Thành H đã không chấp hành vì cho rằng mình không vi phạm tốc độ, nên đã tranh cãi và điều khiển xe đâm thẳng vào ông Nguyễn Anh Đ và ông Lê Hồ Việt A là cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ, khi những người này đang đứng trước đầu xe ô tô. Ông Lê Hồ Việt A nhảy sang lề đường tránh được, còn ông Nguyễn Anh Đ buộc phải bám vào cọng gương chiếu hậu phía trước bên trái đầu xe. Phan Thành H tiếp tục điều khiển xe chạy với tốc độ cao, rồi bất ngờ đánh lái mạnh về phía bên trái vào sát giải phân cách giữa đường nhằm hất ông Nguyễn Anh Đ xuống đường để bỏ trốn. Hậu quả là ông Nguyễn Anh Đ bị rơi khỏi xe va vào giải phân cách cứng giữa đường, rồi rơi xuống đường. Phan Thành H bỏ mặc cho hậu quả xảy ra rồi tiếp tục điều khiển xe chạy trốn. Ông Nguyễn Anh Đ đã bị chấn thương sọ não, gãy chân, tổn hại sức khỏe 40%.Do có hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phan Thành H về tội “Giết người” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 và điểm b khoản 2 Điều 267 BLHS năm 1999 là có căn cứ, đúng pháp luật.”4. Tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự áp dụng án lệKhi án lệ số 18/2018 có hiệu lực 03/12/2018, nếu có hành vi dùng phương tiện cố ý đâm thẳng vào lực lượng cảnh sát giao thông khi thi hành công vụ gây hậu quả thương tích hoặc chết người thì phải áp dụng ALHS số 18/2018 để xét xử về tội giết người với tình tiết định khung là giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 BLHS 1999 hoặc điểm d khoản 1 Điều 123 BLHS thức mở rộng, qua án lệ này giúp phân biệt rõ hành vi phạm tội giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân là tình tiết định khung quy định tại Điều 93 BLHS 1999, tương ứng với Điều 123 BLHS 2015 hoàn toàn khác biệt với hành vi khách quan và ý thức chủ quan của tội chống người thi hành công vụ quy định tại Điều 257 BLHS 1999, tương ứng với Điều 330 BLHS là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email info
- Việc nghiên cứu thực tiễn xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam từ năm 2015 đến nay, không thể tách rời thực tiễn xây dựng và áp dụng án lệ nói chung. Qua nghiên cứu quá trình xây dựng và áp dụng án lệ ở Việt Nam hiện nay, có thể thấy được những thành tựu và hạn chế của hoạt động xây dựng và áp dụng án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng. Trong 3 năm 2015-2018, có 04 ALHS được ban hành, việc phân tích những án ALHS trên là rất cần thiết để có thể thấy rõ được những thành tựu và hạn chế trong việc xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, có những nhận định đúng đắn, khoa học, nhằm đề xuất những giải pháp hợp lý cho việc xây dựng và áp dụng án lệ trong thời gian tới. VẤN ĐỀ Ngày 06-4-2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Quyết định số 220/QĐ-CA đã ban hành 06 án lệ đầu tiên, trong đó có 01 án lệ hình sự. Ngày 06-11-2018, Quyết định số 269/QĐ-CA của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao TANDTC đã công bố thêm 10 án lệ, trong đó có 03 án lệ hình sự ALHS. Như vậy, tính đến thời điểm hiện tại tổng số án lệ được công bố là 26 án lệ. Bài viết làm rõ sự cần thiết, nội dung, tình huống của 04 ALHS đã được công bố. Việc bình luận, phân tích những tình tiết, sự kiện pháp lý của vụ án hình sự được đề cập trong 04 ALHS sẽ làm cơ sở cho việc áp dụng các vụ án hình sự tương tự về sau nhằm bảo đảm hiệu quả áp dụng ALHS trong thực tiễn xét xử. LUẬN lệ hình sự số 01 Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ BLHS 1999, Điều 93. Tội giết người Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung than hoặc tử hình … m Thuê giết người hoặc giết người thuê; n Có tính chất côn đồ…” “Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác … Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm”… Sự cần thiết phải công bố án lệ BLHS năm 1999 đã quy định về tội giết người Điều 93 và tội cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” khoản 3 Điều 104. Hai tội danh này có nhiều dấu hiệu cấu thành tội phạm cơ bản giống nhau như Đều có hành vi khách quan là đánh, đâm, chém, bắn…; hậu quả là nạn nhân chết. Việc phân biệt hai tội danh này chủ yếu dựa vào ý thức chủ quan của người phạm tội. Thực tiễn xét xử cho thấy, trong nhiều trường hợp việc phân định hai tội danh nêu trên là rất khó khăn do các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khó có thể xác định ý thức chủ quan của người phạm tội và thực tế thì cơ sở để xác định ý thức chủ quan của người phạm tội chủ yếu dựa trên việc đánh giá những biểu hiện khách quan bên ngoài của hành vị phạm tội. Bên cạnh đó, việc xác định như thế nào là “gây thương tích dẫn đến chết người” cũng chưa được hướng dẫn cụ thể dẫn đến nhiều cách hiểu, đánh giá khác nhau về cùng một hành vi, từ đó dễ dẫn đến sai sót trong việc xác định tội danh của người phạm tội. Việc Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn, công bố Án lệ số 01/2016/AL nhằm làm rõ sự khác biệt giữa tội giết người và tội cố ý gây thương tích với tình tiết tăng nặng định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”. Theo đó, dấu hiệu pháp lý đặc trưng để phân biệt hai tội này là về ý thức chủ quan của bị cáo nhằm tước đoạt tính mạng của người khác hay chỉ có ý muốn gây thương tích cho người khác, họ có thấy hoặc buộc phải thấy trước hậu quả chết người xảy ra hay không? Nội dung vụ án và tình huống của án lệ Trong các vụ việc tạo lập Án lệ số 01/2016/AL, bị cáo Đồng Xuân Phương đã thuê Hoàng Ngọc Mạnh, Đoàn Đức Lân đánh anh Nguyễn Văn Soi để trả thù bằng cách dùng dao đâm vào chân, tay anh Soi để gây thương tích. Sau đó, Mạnh đã thực hiện hành vi đâm 02 nhát vào mặt sau đui phải, làm anh Soi chết. Kết luận giám định cho thấy anh Soi bị 02 vết thương tại mặt sau đùi phải, vết phía trên xuyên vào cơ đùi 3cm, vết phía dưới cắt đứt động mạch, tĩnh mạch, đùi sau gây chảy mất nhiều máu. Nguyên nhân bị hại chết là do cú sốc mất mấy cấp không hồi phục do vết thương động mạch. Đoàn Đức Lân và Hoàng Ngọc Mạnh đã bỏ trốn, đang bị truy nã. Án lệ này đang xem xét trách nhiệm hình sự của người chủ mưu trong một vụ án hình sự có đồng phạm tham gia. Trong án lệ này, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã căn cứ vào ý thức chủ quan của bị cáo là có mong muốn tước đoạt tính mạng của người bị hại không và hành vi khách quan thể hiện bên ngoài chứng minh cho ý thức chủ quan đó để xác định bị cáo phạm tội giết người hay cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”. Trường hợp này, người chủ mưu không có ý định tước đoạt tính mạng của người bị hại nên chỉ yêu cầu người thực hành gây thương tích vào chân, tay bị hại; không yêu cầu người tiến hành tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể là những vị trí nếu bị tấn công thì sẽ có nhiều khả năng xâm hại đến tính mạng nạn nhân. Người thực hành làm đúng yêu cầu của người chủ mưu, nhưng sau đó nạn nhân bị chết do sốc mất máu cấp ngoài ý muốn của người chủ mưu…Trong trường hợp này, người chủ mưu chỉ chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” mà không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người. Hoàn cảnh tương tự được áp dụng án lệ Án lệ số 01/2016/AL nhằm hướng dẫn các Tòa án trong việc xác định trách nhiệm hình sự của người chủ mưu phạm tội cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” trong vụ án có đồng phạm. Theo đó, trong vụ án có đồng phạm, nếu chứng minh được ý thức chủ quan của người chủ mưu là chỉ thuê người khác gây thương tích cho người bị hại mà không có ý định tước đoạt tính mạng của họ người chủ mưu chỉ yêu cầu gây thương tích ở chân, tay của người bị hại mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến chết người; việc nạn nhân bị chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người chủ mưu thì người chủ mưu phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”. Án lệ số 01/2016/AL được hình thành trên cơ sở một vụ án có đồng phạm và người bị truy cứu trách nhiệm hình sự là người chủ mưu. Tuy nhiên, bản chất của việc xác định bị cáo phạm tội giết người hay tội cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” là ở chỗ xác định ý thức chủ quan của bị cáo có ý định tước đoạt tính mạng của người bị hại hay không và hành vi khách quan chứng minh được cho ý thức chủ quan của bị cáo mà không phụ thuộc vào việc bị cáo đó là người chủ mưu hay người thực hành. Vì vậy, tình huống án lệ này cũng nên được áp dụng đối với trường hợp vụ án không có đồng phạm. Nếu chứng minh được người thực hiện hành vi phạm tội không có ý định tước đoạt tính mạng của người bị hại, khi gây thương tích, bị cáo không tấn công vào những phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến chết người, việc nạn nhân chết là nằm ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo thì cũng cần áp dụng án lệ này để xử bị cáo về tội “cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” mà không xử tội “giết người”. Tuy nhiên, khi xem xét án lệ này cũng còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Quan điểm cho rằng các bị cáo được thuê gây thương tích hiện đang bỏ trốn, chưa bắt được. Việc xác định tội danh đối với người thuê phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người chủ yếu dựa vào lời khai của bị cáo và sự phù hợp với vị trí gây thương tích. Chưa có căn cứ xác định ý thức chủ quan cũng như đầy đủ diễn biến hành vi khách quan của người được thuê khi thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, án lệ này chưa phải là giải pháp pháp lí toàn diện, dễ bị thay đổi nếu bắt được các bị cáo bỏ trốn và xuất hiện những tình tiết khác với vụ án đã được xét xử. Đặc biệt, khó khăn trong việc hiểu như thế nào là “đảm bảo những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau” để áp dụng xét xử các vụ án hình sự tương tự theo quy định tại khoản 3, Điều 2, Nghị quyết số 03/2015/HĐTP. lệ hình sự số 17/2018 Quy định của pháp luật có liên quan – Điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS 1999 tương ứng điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS 2015. – Khoản 2 Điều 93 BLHS 1999 tương ứng khoản 2 Điều 123 BLHS 2015. – Điều 20 BLHS 1999 tương ứng Điều 17 BLHS 2015. Sự cần thiết phải công bố án lệ Hiện nay, nhận thức về các quy định của Pháp luật có liên quan nêu trên còn khác nhau, dẫn đến việc áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố, xét xử thiếu thống nhất. Đặc biệt, nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự trong các vụ án có đồng phạm. Có quan điểm cho rằng, trong vụ án có đồng phạm thì người thực hành phạm tội gì, theo khung hình phạt nào thì các đồng phạm khác cũng phải bị truy tố, xét xử theo tội danh và khung hình phạt đó. Quan điểm trên là không phù hợp với quy định của pháp luật về đồng phạm đồng phạm giản đơn và đồng phạm có tổ chức. Bởi lẽ, mỗi người đồng phạm gắn với những tình tiết định khung riêng, nên không thể buộc đồng phạm khác phải chịu trách nhiệm hình sự theo tình tiết định khung hình phạt riêng cho người thực hiện tội phạm, trừ trường hợp những người đồng phạm có chung tình tiết định khung. ALHS số 17 ra đời là sự giải thích thống nhất để áp dụng về nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự trong vụ án có đồng phạm. Do vậy án lệ này ra đời là cần thiết. Nội dung vụ án hình sự và tình huống án lệ * Nội dung vụ án Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Sau khi chứng kiến việc bố vợ là ông Dương Quang H bị các con của ông Dương Quang Q đánh, Nguyễn Văn H là người trực tiếp gọi điện báo cho Trần Quang V biết việc ông H bị đánh. Trong lúc ăn nhậu cùng V và Phạm Nhật T vào tối ngày 19-01-2015, biết V và T có ý định đi đánh ông Q để trả thù , H nói “Ba bị đánh thương lắm, chừ còn đau”, làm củng cố ý thức, quyết tâm của V trong việc đi đánh ông Q. H cũng là người chỉ nơi ở, đặc điểm nhận dạng của ông Q cho V và T biết để V và T có thể thực hiện hành vi đánh ông Q. Khi nghe V và T bàn bạc kế hoạch đi đánh ông Q, H không can ngăn mà còn nói “Nếu đánh thì đánh dằn mặt thôi”, thể hiện sự thống nhất ý chí về việc đánh ông Q. Sau đó, H bỏ về trước. Thực tế, Trần Quang V đã dùng mã tấu chém liên tiếp vào vùng đầu, mặt, chân, tay ông Q làm ông Q gục ngay tại chỗ. Do mọi người can ngăn và được đưa đi cấp cứu kịp thời nên ông Q không chết là ngoài ý muốn chủ quan của V. Sau khi chém ông Q, V đã gọi liên tiếp ba cuộc điện thoại cho H để hỏi về thương tích của ông Q. Mặc dù, H không biết trước việc V dùng mã tấu chém liên tiếp vào những vùng trọng yếu trên cơ thể ông Q, có thể tước đoạt tính mạng của ông Q nhưng H đã thống nhất ý chí với V và T trong việc đánh ông Q, chấp nhận hậu quả xảy ra. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm kết án Nguyễn Văn H đồng phạm với Trần Quang V và Phạm Nhật T về tội “Giết người” là có căn cứ. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm kết án Nguyễn Văn H theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” là không đúng, bởi vì Trong vụ án này Trần Quang V và Phạm Nhật T là người trực tiếp thực hiện hành vi đánh ông Q; chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt với các con của ông Q mà V và T đã dùng mã tấu chém nhiều nhát vào những vùng trọng yếu trên cơ thể của ông Q nên chỉ hành vi phạm tội của V và T “Có tính chất côn đồ”, còn Nguyễn Văn H không trực tiếp tham gia đánh ông Q mà giúp sức cho V và T trong việc đánh ông Q nên hành vi phạm tội của H không “Có tính chất côn đồ” mà chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999. * Tình huống án lệ “…Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm kết án Nguyễn Văn H theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” là không đúng, bởi vì Trong vụ án này Trần Quang V và Phạm Nhật T là người trực tiếp thực hiện hành vi đánh ông Q; chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt với các con của ông Q mà V và T đã dùng mã tấu chém nhiều nhát vào những vùng trọng yếu trên cơ thể của ông Q nên chỉ hành vi phạm tội của V và T “Có tính chất côn đồ”, còn Nguyễn Văn H không trực tiếp tham gia đánh ông Q mà giúp sức cho V và T trong việc đánh ông Q nên hành vi phạm tội của H không “Có tính chất côn đồ” mà chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999”. Tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự áp dụng án lệ Vụ án hình sự cụ thể được nêu trong án lệ số 17/2018, V và T là người thực hiện hành vi phạm tội với tình tiết “có tính chất côn đồ”, nên chỉ có V và T xét xử theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS là đúng. Còn đối với H là người đồng phạm giúp sức, hành vi giúp sức của H không có tình tiết có tính chất côn đồ, cũng không có tình tiết định khung nào khác tại khoản 1 Điều 93 BLHS. Do đó, đối với H phải áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS để xét xử mới đúng pháp luật. Kể từ ngày án lệ có hiệu lực 03/12/2018, các vụ án hình sự về tội giết người mà có đồng phạm với tình tiết tương tự như vậy thì phải áp dụng ALHS số 17/2018 để xét xử. ALHS số 17/2018 góp phần thống nhất nhận thức về nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của các đồng phạm trong vụ án hình sự. Đồng phạm phải chịu TNHS về một tội phạm mà họ thống nhất thực hiện, tuy nhiên, không phải mọi trường hợp họ đều phải chịu TNHS theo tình tiết định khung riêng của người thực hành lệ hình sự số 18/2018 Quy định pháp luật liên quan đến án lệ – Điểm d khoản 1 Điều 93 BLHS 1999 tương ứng với điểm d khoản 1 Điều 123 BLHS 2015. – Điều 257 BLHS 1999 tương ứng với Điều 330 BLHS 2015 Sự cần thiết công bố án lệ Thực tiễn cho thấy, có những hành vi, tình tiết tương tự nhau nhưng việc định tội, định khung lại không giống nhau. Cụ thể, trong vụ án sau Khi người điều khiển phương tiện giao thông bị cảnh sát giao thông yêu cầu dừng xe để kiểm tra và xử lý vi phạm thì người lái xe có hành vi chống đối và điều khiển phương tiện đâm thẳng vào lực lượng cảnh sát giao thông đang thi hành công vụ dẫn đến hậu quả chết người hoặc gây thương tích, tổn hại sức khỏe cho người thi hành công vụ. Có trường hợp định tội danh là cố ý gây thương tích, trường hợp khác cũng tương tự như vậy thì lại định tội danh là chống người thi hành công vụ, có trường hợp thì truy tố, xét xử về tội giết người theo Điều 93 BLHS 1999. Như vậy, với hành vi trên, việc định tội và định khung hình phạt là thiếu thống nhất. Do đó, cần thiết phải có một án lệ làm căn cứ định tội danh bảo đảm thống nhất trong việc áp dụng các quy định BLHS. Nội dung vụ án hình sự và tình huống án lệ * Nội dung vụ án Lời khai nhận tội của bị cáo Phan Thành H và Từ Công T phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận Vào khoảng 16 giờ 05 phút ngày 30-6-2017, bị cáo Phan Thành H điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS kéo theo sơmirơmoóc BKS khi đi đến km 488 + 650 quốc lộ 1A thuộc địa phận xã K, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh thì bị tổ tuần tra Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Tĩnh dừng xe vì đã vi phạm về tốc độ 66/60km/giờ. Bị cáo Phan Thành H đã không chấp hành vì cho rằng mình không vi phạm tốc độ, nên đã tranh cãi và điều khiển xe đâm thẳng vào ông Nguyễn Anh Đ và ông Lê Hồ Việt A là cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ, khi những người này đang đứng trước đầu xe ô tô. Ông Lê Hồ Việt A nhảy sang lề đường tránh được, còn ông Nguyễn Anh Đ buộc phải bám vào cọng gương chiếu hậu phía trước bên trái đầu xe. Phan Thành H tiếp tục điều khiển xe chạy với tốc độ cao, rồi bất ngờ đánh lái mạnh về phía bên trái vào sát giải phân cách giữa đường nhằm hất ông Nguyễn Anh Đ xuống đường để bỏ trốn. Hậu quả là ông Nguyễn Anh Đ bị rơi khỏi xe va vào giải phân cách cứng giữa đường, rồi rơi xuống đường. Phan Thành H bỏ mặc cho hậu quả xảy ra rồi tiếp tục điều khiển xe chạy trốn. Ông Nguyễn Anh Đ đã bị chấn thương sọ não, gãy chân, tổn hại sức khỏe 40%. Phan Thành H và Từ Công T còn có hành vi phạm tội như sau Bị cáo Từ Công T biết rõ bị cáo Phan Thành H chưa có giấy phép lái xe hạng FC và chưa đủ tuổi để được cấp giấy phép lái xe hạng FC, nhưng Từ Công T đã thuê một người ở Hải Phòng Từ Công T không biết rõ họ tên và địa chỉ làm giấy phép lái xe hạng FC giả, số 520144004729 có ảnh của Phan Thành H, nhưng mang tên Lưu Văn C đưa cho Phan Thành H sử dụng nhằm lừa dối cơ quan chức năng khi điều khiển xe trên đường. Khi có giấy phép lái xe giả do Từ Công T cung cấp, Phan Thành H đã hai lần sử dụng giấy phép lái xe giả để lừa dối cảnh sát giao thông tỉnh Quảng Ngãi và Công an huyện L, tỉnh Hà Tĩnh. Hành vi sử dụng giấy phép lái xe giả lừa dối cơ quan chức năng nêu trên của Phan Thành H, thì Từ Công T đều biết. * Tình huống án lệ Lời khai nhận tội của bị cáo Phan Thành H và Từ Công T phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận Vào khoảng 16 giờ 05 phút ngày 30-6-2017, bị cáo Phan Thành H điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS kéo theo sơmirơmoóc BKS khi đi đến km 488 + 650 quốc lộ 1A thuộc địa phận xã K, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh thì bị tổ tuần tra Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Tĩnh dừng xe vì đã vi phạm về tốc độ 66/60km/giờ. Bị cáo Phan Thành H đã không chấp hành vì cho rằng mình không vi phạm tốc độ, nên đã tranh cãi và điều khiển xe đâm thẳng vào ông Nguyễn Anh Đ và ông Lê Hồ Việt A là cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ, khi những người này đang đứng trước đầu xe ô tô. Ông Lê Hồ Việt A nhảy sang lề đường tránh được, còn ông Nguyễn Anh Đ buộc phải bám vào cọng gương chiếu hậu phía trước bên trái đầu xe. Phan Thành H tiếp tục điều khiển xe chạy với tốc độ cao, rồi bất ngờ đánh lái mạnh về phía bên trái vào sát giải phân cách giữa đường nhằm hất ông Nguyễn Anh Đ xuống đường để bỏ trốn. Hậu quả là ông Nguyễn Anh Đ bị rơi khỏi xe va vào giải phân cách cứng giữa đường, rồi rơi xuống đường. Phan Thành H bỏ mặc cho hậu quả xảy ra rồi tiếp tục điều khiển xe chạy trốn. Ông Nguyễn Anh Đ đã bị chấn thương sọ não, gãy chân, tổn hại sức khỏe 40%. Do có hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phan Thành H về tội “Giết người” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 và điểm b khoản 2 Điều 267 BLHS năm 1999 là có căn cứ, đúng pháp luật.” Tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự áp dụng án lệ Khi án lệ số 18/2018 có hiệu lực 03/12/2018, nếu có hành vi dùng phương tiện cố ý đâm thẳng vào lực lượng cảnh sát giao thông khi thi hành công vụ gây hậu quả thương tích hoặc chết người thì phải áp dụng ALHS số 18/2018 để xét xử về tội giết người với tình tiết định khung là giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 BLHS 1999 hoặc điểm d khoản 1 Điều 123 BLHS 2015. Nhận thức mở rộng, qua án lệ này giúp phân biệt rõ hành vi phạm tội giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân là tình tiết định khung quy định tại Điều 93 BLHS 1999, tương ứng với Điều 123 BLHS 2015 hoàn toàn khác biệt với hành vi khách quan và ý thức chủ quan của tội chống người thi hành công vụ quy định tại Điều 257 BLHS 1999, tương ứng với Điều 330 BLHS 2015. lệ hình sự số 19/2018 Quy định pháp luật có liên quan Điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 60; điểm c khoản 2 Điều 278 BLHS năm 1999 tương ứng với điểm b, s Điều 51; Điều 54; Điều 65, điểm c khoản 2 Điều 353 BLHS năm 2015; Sự cần thiết công bố án lệ Hiện nay, việc xác định số tiền chiếm đoạt trong hợp có khắc phục một phần hậu quả để làm căn cứ định tội và định khung hình phục còn có những cách hiểu khác nhau, thiếu tính thống nhất. Rất cần phải có một án lệ giải thích về vấn đề này. Án lệ hình sự số 19/2018 là án lệ có nội dung theo tình huống trên. Cụ thể, trong vụ án bị cáo lợi dụng sơ hở trong quản lý ngân hàng bằng thủ đoạn gian dối, nhiều lần trực tiếp làm thủ tục rút và chi tiền tiết kiệm từ quỹ của chi nhánh ngân hàng do bị cáo quản lí nhưng thực tế không chi có bất kì ai. Quá trình điều tra bị cáo đã khắc phục đã khắc phục được một phần số tiền đã chiếm đoạt. Viện kiểm sát nhân dân cho rằng số tiền bị cáo khắc phục hậu quả nên không truy tố về hành vi này. Việc không truy tố số tiền đã khắc phục không những bỏ lọt tội phạm mà còn dẫn đến xác định sai khung hình phạt áp dụng. Do đó, việc công bố án lệ số 19/2018 là rất cần thiết cho quá trình điều tra, truy tố và xét xử áp dụng cho thống nhất. Nội dung vụ án và tình huống án lệ * Nội dung vụ án Võ Thị Ánh N không được lãnh đạo Ngân hàng nông nghiệp C giao nhiệm vụ chi tiền tiết kiệm nhưng lợi dụng sự sơ hở trong quá trình quản lý của Ngân hàng, Võ Thị Ánh N đã nhiều lần trực tiếp làm các thủ tục và chi tiền tiết kiệm từ quỹ của chi nhánh ngân hàng do Võ Thị Ánh N quản lý cho sổ tiết kiệm NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V với tổng số tiền là đồng. Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xác định không có khách hàng nào tên Ngô Thanh V và bản thân Võ Thị Ánh N cũng không chứng minh được ai là người đến nhận số tiền này. Sau khi làm thủ tục chi tiền cho khách hàng Ngô Thanh V, Võ Thị Ánh N đã chuyển đồng là tiền trong quỹ của ngân hàng do Võ Thị Ánh N quản lý vào tài khoản ATM mang tên Võ Thị T do Võ Thị Ánh N là người trực tiếp mở thẻ, quản lý và sử dụng; sau đó nhiều lần rút số tiền này để chiếm đoạt của Ngân hàng nông nghiệp C. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã kết án Võ Thị Ánh N về tội “Tham ô tài sản” đối với số tiền đồng là có căn cứ và đúng pháp luật. Tuy nhiên, số tiền mà Võ Thị Ánh N chiếm đoạt của Ngân hàng là đồng nên hành vi phạm tội của Võ Thị Ánh N thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 278 BLHS “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng” có khung hình phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ áp dụng khoản 2 Điều 278 BLHS xử phạt bị cáo Võ Thị Ánh N 03 năm tù là quá nhẹ, không đúng với quy định của pháp luật. Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm, vẫn giữ nguyên mức hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo là sai lầm nghiêm trọng, không đánh giá đúng tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. * Tình huống án lệ “Đối với số tiền còn lại đồng – = đồng mà Võ Thị Ánh N đã chi trả cho sổ tiết kiệm bậc thang NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V, Võ Thị Ánh N đã khắc phục xong hậu quả, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố C đã thu hồi được toàn bộ số tiền bị mất. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định cho rằng bị cáo đã khắc phục hậu quả nên không truy tố về hành vi này là bỏ lọt tội phạm.” Tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự áp dụng án lệ Khi vụ án hình sự bị truy tố về tội tham ô tài sản và xác định số tiền bị cáo chiếm đoạt. Trong quá trình điều tra, bị cáo có bồi thường, khắc phục hậu quả một phần số tiền đã chiếm đoạt, thì phải truy tố và xét xử bị cáo về tội tham ô với tổng số tiền được xác định chiếm đoạt ban đầu. Khi vụ án hình sự có tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự như vậy thì Tòa án phải áp dụng ALHS số 19/2018 để xét xử bị cáo. ALHS số 19 không chỉ lập luận, giải thích, chỉ ra việc bỏ lọt hành vi phạm tội trong tội tham ô tài sản mà còn chỉ ra việc đánh giá tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội không đúng, dẫn đến áp dụng sai khung hình phạt. Lẽ ra bị cáo phải bị xét xử theo khoản 3 Điều 278 BLHS 1999,có khung hình phạt từ mười lăm năm đến hai mươi năm. Do loại trừ số tiền chiếm đoạt đã khắc phúc nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 2 Điều 278 BLHS 1999 có khung hình phạt từ bảy đến mười lăm năm tù để xét xử bị cáo là không đúng pháp luật. Mặc dù số lượng các án lệ được ban hành còn khiêm tốn nhưng đã thể hiện được quyết tâm của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; được nhìn nhận là dấu ấn quan trọng về cải cách tư pháp, góp phần minh bạch hóa các bản án, quyết định của Tòa án, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau. Các án lệ mới được công bố đã phần nào đáp ứng được mong đợi của người dân, khắc phục được các khiếm khuyết và bảo đảm việc áp dụng pháp luật thống nhất trong hoạt động xét xử, tạo tính ổn định, minh bạch trong các phán quyết của Tòa án. Theo kết quả khảo sát, từ ngày 01/ 10/2016 đến 2/2018, mới chỉ có 14 tỉnh thành phố trong cả nước áp dụng án lệ trong xét xử, với 18 bản án có áp dụng án lệ và chưa có án lệ hình sự nào được áp dụng. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, từ này 01/10/2016 đến ngày 10/06/2018, có khoảng 143 bản án, quyết định của các Tòa án nhân dân đã viện dẫn, áp dụng án lệ trong đó chủ yếu là viện dẫn án lệ dân sự, hôn nhân, kinh doanh, thương mại. Riêng án lệ hình sự chưa được viện dẫn, áp dụng vào trong hoạt động xét xử của hệ thống Tòa án nhân dân. III. Kết luận Có thể khẳng định rằng BLHS 1999 đã quy định cụ thể về dấu hiệu cấu thành tội phạm về các tội giết người, chống người thi hành công vụ,…, về nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với đồng phạm, về các tình tiết định khung tăng nặng, giảm nhẹ…. nhưng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng còn có nhận thức khác nhau về các quy định đó dẫn đến áp dụng BLHS trong việc điều tra, truy tố và xét xử không đảm bảo tính thống nhất và đúng pháp luật. Qua nội dung của 04 ALHS vừa được công bố đã khẳng định rằng Việc nhận thức, áp dụng các quy định của BLHS có liên quan còn thiếu tính thống nhất. Bằng những lập luận, giải thích trong 04 ALHS vừa công bố sẽ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng thống nhất về cách hiểu và áp dụng khi khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự tương tự về sau. Việc công bố 04 ALHS không chỉ góp phần giải thích, nhận thức thống nhất pháp luật mà còn là căn cứ áp dụng để xét xử các vụ án có tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự về sau. Bảo đảm yêu cầu những vụ án tương tự, giống nhau thì phải được xét xử như nhau. Tức là, nguyên tắc công bằng của pháp luật được bảo đảm thực hiện. Dưới góc độ nhận thức, 04 án lệ hình sự 01 ALHS đã có hiệu lực, 03 ALHS có hiệu lực từ ngày 03/12/2018 được công bố không chỉ có ý nghĩa tạo nên sự nhận thức thống nhất của việc áp dụng các quy định của BLHS liên quan đến 04 án lệ, mà còn mở rộng hoặc làm thay đổi nhận thức chung về phạm tội có tổ chức là tình tiết tăng nặng TNHS, tình tiết định khung tăng nặng trong nhiều loại tội phạm; về nguyên tắc xác định TNHS trong các vụ án hình sự có đồng phạm; phân biệt các trường hợp khi nào hành vi chống người thi hành công vụ được xét xử theo tội danh độc lập tội chống người thi hành công vụ, khi nào trở thành tình tiết định khung tăng nặng trong các tội phạm khác như tội giết người, tội cố ý gây thương tích,…. Đồng thời, án lệ số 19/2018 còn giúp phân định rạch ròi thời điểm hoàn thành tội phạm chiếm đoạt để làm cơ sở xác định hành vi phạm tội, khác với thời điểm khắc phục, bồi thường để xem xét giảm nhẹ hình phạt. Theo
- Soạn thảo bản án hình sự sơ thẩm là công việc thường xuyên của Thẩm phán và những người được giao soạn thảo bản án. Bản án hình sự sơ thẩm là sản phẩm thể hiện kết quả toàn bộ hoạt động tố tụng của Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi tuyên án. Thực tiễn cho thấy hiện nay việc viết bản án vẫn còn xảy ra nhiều sai sót. Qua nghiên cứu các quy định về viết bản án hình sự sơ thẩm xin nêu một số nội dung nhằm hoàn thiện vấn đề viết bản án... Bản án hình sự sơ thẩm là văn bản tố tụng đặc biệt của Toà án nhân danh nước CHXHCN Việt Nam kết thúc hoạt động xét xử xác định bị cáo có tội hay không có tội quy định trong BLHS, xác định trách nhiệm pháp lý của bị cáo với Nhà nước cụ thể hoá bằng hình phạt quy định trong BLHS, xác định trách nhiệm của bị cáo với bị hại nếu có và các thành phần khác cụ thể hoá bằng mức bồi thường thiệt hại quy định trong BLDS. Bản án hình sự sơ thẩm khi được ban hành và có hiệu lực pháp luật thì những quyết định trong bản án đưa đến hậu quả pháp lý rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của những người bị buộc tội và những chủ thể khác có liên quan thể hiện tại Điều 31 Hiến Pháp, Điều 14 Luật tổ chức Tòa án nhân dân, các Điều 13, 14 BLTTHS. Vì vậy việc soạn thảo bản án nhằm phản ánh khách quan, toàn diện, đầy đủ vụ án là một yêu cầu rất quan trọng, thực tiễn cho thấy hiện nay việc viết bản án vẫn còn xảy ra nhiều sai sót. Qua nghiên cứu các quy định về viết bản án hình sự sơ thẩm và các bản án xin nêu một số nội dung nhằm hoàn thiện vấn đề viết bản án hình sự sơ thẩm như sau Phần mở đầu. – Phải ghi đầy đủ tiền án, tiền sự của bị cáo. – Trường hợp bị hại chết thì trong phần đầu của bản án vẫn ghi căn cước của bị hại. Không ghi lý lịch của bị hại đã chết trước đại diện hợp pháp của bị hại. – Trước khi mở phiên tòa, gia đình bị cáo đã thỏa thuận và bồi thường cho người đại diện hợp pháp của bị hại. Tại phiên tòa, đại diện gia đình bị cáo không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền mà gia đình đã ứng ra để bồi thường thì không xác định đại diện gia đình bị cáo là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án mà xác định những người này với tư cách là người làm chứng. – Trường hợp bị hại nằm viện, được người thân chăm sóc và họ yêu cầu bồi thường tiền công chăm sóc thì trong bản án không xác định người chăm sóc này là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vì khoản thu nhập thực tế của người chăm sóc bị hại trong thời gian điều trị được tính để bồi thường cho bị hại, do vậy cần xác định người chăm sóc cho bị hại là người làm chứng. – Đối với trường hợp “Việc vắng mặt của những người làm chứng trong vụ án không ảnh hưởng đến việc xét xử do Tòa án đã gửi giấy triệu tập hợp lệ” được xem xét giải quyết trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa và được ghi vào biên bản phiên tòa mà không ghi ở phần nhận định của Tòa án. – Trường hợp người mua tài sản sau khi biết số tài sản đã mua là tài sản trộm cắp và đã giao cho Cơ quan Công an, không yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền đã mua tài sản thì cần xác định người mua tài sản đó là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Đồng thời không tịch thu số tiền mà người mua tài sản không đòi của bị cáo, vì đây là quan hệ dân sự. Phần nội dung. Khi viết phần nội dung vụ án không ngắt đoạn theo từng vấn đề vì rất khó xác định rõ hành vi phạm tội của bị cáo. Ghi tóm tắt hành vi phạm tội của bị cáo được mô tả trong bản cáo trạng, mặc dù là tóm tắt, nhưng phải thể hiện được đầy đủ về thời gian, không gian, địa điểm thực hiện tội phạm, diễn biến hành vi phạm tội, động cơ, mục đích, thủ đoạn của người phạm tội và hậu quả của tội phạm; ý kiến, quan điểm của KSV về nội dung truy tố bị cáo theo cáo trạng ghi rõ số, ngày, tháng, năm của bản cáo trạng, hoặc quyết định truy tố, tên VKS truy tố ban hành bản cáo trạng, hành vi của bị cáo theo tội danh mà VKS truy tố; tội danh điểm, khoản, điều của BLHS và mức hình phạt, hình phạt bổ sung, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS theo các điểm, khoản, điều của BLHS; biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà VKS đề nghị áp dụng đối với bị cáo tại phiên tòa; quan điểm xử lý vật chứng, nghĩa vụ chịu án phí của bị cáo và các đương sự…mà VKS đề nghị áp dụng đối với bị cáo và các đương sự. Lời bào chữa tranh luận của người bào chữa, của bị cáo; ý kiến của bị hại, những người tham gia tố tụng và những người khác được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa được Tòa án triệu tập. Ngoài ra các chứng cứ khác như lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, kết quả giám định… cũng được ghi vào phần này để phục vụ cho việc nhận định của HĐXX ở phần sau. Phần Nhận định của Tòa án. – Bản án đã trình bày nội dung của vụ án thì ở phần nhận định của Tòa án không trình bày lại toàn bộ nội dung đã được trình bày ở phần trước làm bản án rất dài, không cần thiết. Chỉ cần nhận định rồi kết luận tóm tắt hành vi đặc trưng phạm vào điểm, khoản, điều luật nào của BLHS trừ khi bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội mới phải nhận định cụ thể từng nội dung. – Phần nhận định của Tòa án không ghi “Nhận định của HĐXX” mà phải ghi là “Nhận định của Tòa án”. Các đoạn văn ở phần nhận định của Tòa án phải đặt trong dầu ngoặc vuông [] như hướng dẫn về mẫu bản án của HĐTPTANDTC. – Khi cho bị cáo được hưởng án treo thì trong phần nhận định của Tòa án phải nhận định về thời gian thử thách đối với bị cáo Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo. – Trong phần nhận định của Tòa án phải xác định rõ đối tượng phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. – Trường hợp số tiền bồi thường của bị cáo nhiều hơn số tiền mà bị cáo chiếm đoạt của bị hại thì trong phần nhận định của Tòa án phải nhận định rõ việc thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo với bị hại nhiều hơn số tiền chiếm đoạt. – Trong phần nhận định của Tòa án phải nêu rõ việc bị cáo đã sử dụng vật chứng vào việc thực hiện hành vi phạm tội như thế nào để xử lý vật chứng trong phần quyết định của bản án. Phần quyết định. + Hình phạt. – Khi ghi các điều luật khác nhau thì ghi dầu ; giữa các điều luật. Ví dụ “Áp dụng khoản 1 Điều 134; Điều 17….”. – Đối với bị cáo áp dụng hành phạt tù nhưng cho hưởng án treo, thì trong phần quyết định của bản án ghi rõ tên và địa chỉ của cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo; đồng thời ghi rõ trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi làm việc, cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Ngoài ra, cần tuyên hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định tại khoản 5 Điều 65 BLHS Xem Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo. – Quyết định của bản án phần tổng hợp hình phạt của nhiều bản án phải nêu cụ thể mức hình phạt của bản án mà bị cáo đã bị Tòa án xét xử trước đó. +Biện pháp tư pháp. – Trong quyết định phần bồi thường thiệt hại trường hợp bị cáo gây thiệt hại cho nhiều bị hại, không ghi tổng số tiền phải bồi thường cho tất cả những bị hại mà phải ghi số tiền bị cáo phải bồi thường cho từng bị hại. Ngoài ra phải ghi nhận cụ thể số tiền bị cáo phải bồi thường theo thỏa thuận, trong đó đã bồi thường được bao nhiêu, còn phải bồi thường bao nhiêu. – Trong vụ án đồng phạm, các bị cáo cùng gây ra thiệt hại tài sản thì cần áp dụng Điều 587 BLDS năm 2015 để tuyên trách nhiệm liên đới bồi thường đối với các bị cáo. Ngoài ra, cần tuyên số tiền cụ thể mà từng bị cáo phải bồi thường và số tiền còn phải bồi thường là bao nhiêu Chỉ liên đới bồi thường thiệt hại khi nhiều bị cáo cùng có sự thống nhất ý chí trong việc gây thiệt hại “Cùng gây thiệt hại”. Tại phiên tòa nếu có bị hại không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường số tiền chiếm đoạt của họ, thì Tòa án phải nhận định cụ thể số tiền mà những bị hại không yêu cầu các bị cáo bồi thường là bao nhiêu để trừ đi, số còn lại phải bồi thường là bao nhiêu. – Trước khi mở phiên tòa bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại đã thỏa thuận được với nhau về phần bồi thường thiệt hại và đề nghị Tòa án ghi nhận việc bồi thường thiệt hại thì trong bản án không tính án phí dân sự sơ thẩm Xem Nghị quyết 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. – Trường hợp bị cáo đã bồi thường xong thì trong phần quyết định về các biện pháp tư pháp của bản án không viện dẫn điều luật mà chỉ ghi nhận các bị cáo đã bồi thường. – Trước khi mở phiên tòa, bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi hoàn số tiền thiệt hại, đại diện gia đình bị cáo chấp nhận yêu cầu của bị hại và đã nộp đủ số tiền yêu cầu thì trong phần quyết định của bản án về bồi thường thiệt hại không áp dụng các quy định của BLDS để buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại, trường hợp này, trong bản án chỉ cần ghi nhận bị cáo đã bồi thường theo yêu cầu của bị hại. – Đối với tiền cấp dưỡng thì trong phần quyết định cần tuyên rõ số tiền cấp dưỡng, cũng như bị cáo phải chịu tiền án phí dân sự không có giá ngạch đối với số tiền cấp dưỡng hàng tháng đó và tuyên lãi suất trả chậm đối với số tiền cấp dưỡng chậm trả. + Xử lý vật chứng. – Quyết định của bản án về xử lý vật chứng không nêu lại đặc điểm của vật chứng mà nội dung này được thực hiện tại phần Nhận đình của Tòa án. Đồng thời cần nêu rõ căn cứ vào Biên bản thu giữ vật chứng để giải quyết. + Án phí. Trong phần quyết định của bản án không tính toán phần án phí dân sự vì phần tính toán án phí được thực hiện tại phần nhận định của Tòa án. Một số nội dung khác – Trường hợp HĐXX quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án thì khi Nghị án phải thảo luận nội dung này Điều 326 BLTTHS năm 2015. – Trường hợp bản án tuyên trả lại tài sản của bị cáo đã bị kê biên cho bị cáo nhưng số tài sản này không phải là vật chứng thì chỉ tuyên trả lại tài sản mà không nêu cụ thể điều luật áp dụng. – Trong bản án không ghi “Dự kiến xử phạt bị cáo…”, vì Bản án đã được HĐXX thảo luận và thông qua tại phòng nghị án trước khi tuyên án. – Trường hợp bị cáo có hành vi gian dối để bị hại giao cho bị cáo tổng số tiền là đồng. Trước khi khởi tố vụ án, bị cáo đã trả cho bị hại số tiền đồng thì Tòa án không xét xử bị cáo chiếm đoạt tổng số tiền là đồng. – Trường hợp bị cáo không bị tạm giữ theo dội danh bị cáo đang bị xét xử mà bị tạm giữ theo tội danh khác do cơ quan tiến hành tố tụng ngoài Quân đội áp dụng thì trong bản án phải ghi rõ bị cáo bị tạm giữ theo tội danh cụ thể nào. – Đối với vụ án đồng phạm thì trong bản án phải cá thể hóa trách nhiệm hình sự của từng bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự, dân sự của từng bị cáo theo quy định tại Điều 58 BLHS. – Quá trình giải quyết vụ án, HĐXX quyết định hoãn phiên tòa thì trong hồ sơ vụ án vẫn có Biên bản phiên tòa. – Vấn đề kiến nghị, sữa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý được lập thành văn bản riêng được đọc tại phiên tòa cùng với bản án hoặc gửi riêng cho cơ quan, tổ chức hữu quan mà không nêu trong bản án Điều 264 BLTTHS năm 2015. Soạn thảo bản án hình sự sơ thẩm là công việc thường xuyên của Thẩm phán và những người được giao soạn thảo bản án. Bản án hình sự sơ thẩm là sản phẩm thể hiện kết quả toàn bộ hoạt động tố tụng của Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi tuyên án. Vì vậy, chất lượng bản án phụ thuộc vào trình độ, bản lĩnh và kỹ năng nghiệp vụ của Thẩm phán và HĐXX. Nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong công tác cải cách tư pháp giai đoạn hiện nay đòi hỏi mỗi Thẩm phán và những người giao soạn thảo bản án phải nắm chắc quy định của pháp luật, hồ sơ vụ án, thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ để có những bản án hình sự thực sự công minh, khách quan, đúng quy định, thấu tình đạt lý.
bình luận bản án hình sự